Thông tin : Tháng Tư 2020

Tin tức thép Miền Bắc Nosco JSC

Giá dầu thô Mỹ bật tăng 22%, đồng cao nhất 6 tuần

Chốt phiên giao dịch ngày 29/4, giá dầu thô Mỹ tăng mạnh 22%, đồng cao nhất 6 tuần, kẽm cao nhất hơn 1 tuần, trong khi khí tự nhiên, vàng và quặng sắt giảm.

Giá dầu thô Mỹ tăng mạnh 22%

Giá dầu thô Mỹ tăng mạnh 22% sau khi tồn trữ dầu thô của nước này tăng ít hơn so với dự kiến và tồn trữ xăng giảm, làm gia tăng lạc quan tiêu thụ nhiên liệu sẽ hồi phục khi một số nước châu Âu và tiểu bang Mỹ nới lỏng các hạn chế do virus corona.

Chốt phiên giao dịch ngày 29/4, dầu thô Brent tăng 2,08 USD tương đương 10,2% lên 22,54 USD/thùng và dầu thô Tây Texas WTI tăng 2,72 USD tương đương 22% lên 15,06 USD/thùng.

Tồn trữ dầu thô của Mỹ trong tuần trước tăng 9 triệu thùng lên 527,6 triệu thùng, thấp hơn 7 triệu thùng so với mức cao kỷ lục và thấp hơn so với dự kiến tăng 10,6 triệu thùng của các nhà phân tích, Cơ quan Thông tin Năng lượng cho biết. Đồng thời, tồn trữ xăng của Mỹ giảm xuống 3,7 triệu thùng so với mức cao kỷ lục tuần trước đó, do nhu cầu nhiên liệu tăng làm lu mờ sản lượng lọc dầu hồi phục.

Giá khí tự nhiên tiếp đà giảm

Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm do dự báo thời tiết ôn hòa hơn và nhu cầu giảm, đặc biệt là nhu cầu xuất khẩu trong 2 tuần tới thấp hơn so với dự kiến.

Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 6/2020 trên sàn New York giảm 7,9 US cent tương đương 4,1% xuống 1,869 USD/mmBTU. Tuy nhiên, con số này vẫn cao hơn 7% so với giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 5/2020 đã hết hiệu lực.

Giá vàng giảm tiếp

Giá vàng giảm do lạc quan xung quanh việc nới lỏng các hạn chế do virus corona và kỳ vọng một loại thuốc điều trị tiềm năng thúc đẩy nhu cầu tài sản rủi ro, trong khi các nhà đầu tư chờ đợi tuyên bố chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ vào cuối ngày.

Vàng giao ngay trên sàn LBMA giảm 0,4% xuống 1.701,36 USD/ounce, sau khi giảm trong 3 phiên liên tiếp trước đó và vàng kỳ hạn tháng 6/2020 trên sàn New York giảm 0,5% xuống 1.713,4 USD/ounce.

Giá đồng cao nhất 6 tuần, kẽm cao nhất hơn 1 tuần

Giá đồng tăng lên mức cao nhất 6 tuần do triển vọng nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – tăng mạnh và sản xuất bị gián đoạn vượt xa kỳ vọng nguồn cung từ các nước sản xuất bị đóng cửa bởi virus corona tăng.

Giá đồng trên sàn London tăng 0,7% lên 5.261 USD/tấn, trước đó trong phiên giá đồng đạt 5.280 USD/tấn, tăng 20% kể từ mức thấp nhất 4 năm (4.371 USD/tấn) trong ngày 19/3/2020.

Hoạt động nhà máy Trung Quốc tăng tháng thứ 2 liên tiếp trong tháng 4/2020 do nhiều doanh nghiệp mở cửa trở lại từ việc đóng cửa nhằm ngăn chặn virus corona bùng phát, làm tê liệt nền kinh tế toàn cầu.

Đồng thời, giá kẽm giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,7% lên 1.945 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 1.949 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 20/4/2020, do lo ngại nguồn cung một số nước sản xuất lớn đóng cửa bởi virus corona.

Giá thép biến động nhẹ, quặng sắt giảm

Giá thép biến động trong phạm vi hẹp, khi các nhà đầu tư chờ xem những diễn biến tác động đến nhu cầu từ các biện pháp kích thích cơ sở hạ tầng của chính phủ Trung Quốc.

Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây kỳ hạn tháng 10/2020 giảm 0,03% xuống 3.302 CNY (466,74 USD)/tấn. Giá thép cuộn cán nóng tăng 0,2% lên 3.159 CNY/tấn, trong khi giá thép không gỉ kỳ hạn tháng 6/2020 giảm 0,1% xuống 12.820 CNY/tấn.

Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm 0,6% xuống 596 CNY/tấn.

Giá đường tiếp đà tăng, cà phê diễn biến trái chiều

Giá đường tăng do giá dầu thô tăng thúc đẩy hoạt động mua vào và đồng real Brazil tăng phiên thứ 2 liên tiếp.

Giá đường thô kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn ICE tăng 0,42 US cent tương đương 4,5% lên 9,76 US cent/lb. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2020 trên sàn London tăng 9,5 USD tương đương 3% lên 321,2 USD/tấn.

Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn ICE giảm 2,3 US cent tương đương 2,1% xuống 1,053 USD/lb, thấp nhất 1 tháng (1,059 USD/lb) trong 2 phiên liên tiếp trước đó. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn London tăng 6 USD tương đương 0,5% lên 1.186 USD/tấn.

Giá đậu tương và ngô tăng, lúa mì giảm

Giá đậu tương tại Mỹ tăng trong khi giá ngô duy trì vững do kế hoạch nới lỏng các biện pháp đóng cửa và động thái của Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ duy trì việc mở cửa các nhà máy thịt, làm giảm bớt lo ngại về nhu cầu suy giảm bởi đại dịch virus corona. Trong khi, giá lúa mì giảm xuống mức thấp nhất 1 tháng do đồng USD tăng mạnh khiến triển vọng xuất khẩu suy giảm và mưa tại châu Âu và khu vực Biển Đen đã thúc đẩy triển vọng năng suất cây trồng.

Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 7/2020 tăng 1 US cent lên 3,13 USD/bushel và giá đậu tương giao cùng kỳ hạn tăng 7 US cent lên 8,39 USD/bushel, trong khi giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2020 giảm 11-1/4 US cent xuống 5,14-3/4 USD/bushel.

Giá dầu cọ tăng

Giá dầu cọ tại Malaysia tăng theo xu hướng giá dầu thô và dầu đậu tương tăng mạnh và được hậu thuẫn bởi hoạt động mua vào kiếm lời, song mức tăng bị hạn chế bởi lo ngại về nhu cầu toàn cầu suy yếu do virus corona.

Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn Bursa Malaysia tăng 16 ringgit tương đương 0,79% lên 2.036 ringgit (467,51 USD)/tấn và tăng phiên thứ 2 liên tiếp.

Ngoài ra, giá dầu cọ còn được hỗ trợ bởi sản lượng tại các đồn điền giảm khi những người lao động trở về nhà cho lễ hội Ramada, giám đốc bán hàng Marcello Cultrera thuộc Phillip Futures, Kuala Lumpur cho biết.

Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 30/4

Thị trường ngày 30/4: Giá dầu thô Mỹ bật tăng 22%, đồng cao nhất 6 tuần - Ảnh 1.

(Nguồn: CafeF)

Tin tức thép Miền Bắc Nosco JSC

Giá quặng sắt tăng do dự trữ tại các cảng giảm mạnh

Giá thép thanh giao tháng 10 trên Sàn giao dịch Thượng Hải giảm 3 nhân dân tệ xuống 3.327 nhân dân tệ/tấn vào lúc 9h45 (giờ Việt Nam).

Giá quặng sắt tăng do dự trữ tại các cảng giảm mạnh

Giá thép xây dựng hôm nay
Giá thép thanh giao tháng 10 trên Sàn giao dịch Thượng Hải giảm 3 nhân dân tệ xuống 3.327 nhân dân tệ/tấn vào lúc 9h45 (giờ Việt Nam).

Chốt phiên thứ Hai (27/4), giá thép thanh trên Sàn giao dịch Thượng Hải tăng 0,3% lên 3.344 nhân dân tệ/tấn.

Giá thép cuộn cán nóng tăng 0,4% lên 3.192 nhân dân tệ/tấn.

Hợp đồng thép không gỉ giao tháng 6 giảm 0,4% xuống 12.935 nhân dân tệ/tấn.

Hợp đồng quặng sắt giao sau của Trung Quốc phục hồi, tăng 0,7% lên 612 nhân dân tệ/tấn (tương đương 86,50 USD/tấn) vào đầu phiên do dự trữ nguyên liệu sản xuất thép giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 9 tháng.

Dự trữ quặng sắt trên khắp các cảng Trung Quốc ở mức 117,95 triệu tấn tính đến ngày 24/4, mức thấp nhất kể từ ngày 14/7/2019, theo dữ liệu của SteelHome.

Trong một vài tuần tới, chúng tôi vẫn thấy nhu cầu quặng sắt tăng mạnh, chủ yếu do cơ sở hạ tầng mạnh bắt đầu ở Trung Quốc, công ty phân tích dữ liệu sắt và thép có trụ sở tại Singapore, Tivlon Technologies đã viết trong một ghi chú.

Hợp đồng quặng sắt có khối lượng giao dịch lớn nhất trên Sàn Đại Liên, giao tháng 9, tăng 0,2% lên 608 nhân dân tệ/tấn vào lúc 3h30 (giờ địa phương).

Giá quặng giao ngay hàm lượng 62% không đổi ở mức 84,5 USD/tấn so với phiên trước đó vào thứ Sáu (24/4).

Giá các nguyên liệu sản xuất thép khác giao dịch trái chiều với giá than mỡ giảm 0,7% xuống 1.086 nhân dân tệ/tấn trong khi giá than cốc tăng 0,7% lên 1.709 nhân dân tệ/tấn.

Ghi nhận hơn 2,91 triệu trường hợp nhiễm virus corona trên toàn cầu và 203.264 người đã tử vong, theo thống kê của Reuters.

Lợi nhuận của các công ty công nghiệp Trung Quốc trong tháng 3 đã giảm 34,9% so với năm trước xuống còn 370,66 tỉ nhân dân tệ (52,43 tỉ USD).

Fitch Ratings hi vọng tác động của virus corona đối với các nhà sản xuất thép Trung Quốc sẽ giảm bớt và dự đoán các yếu tố cơ bản của thị trường sẽ được cải thiện trong quí II.

Các chính quyền địa phương tại Trung Quốc đã nhận được khoản phát hành thêm 1 nghìn tỉ nhân dân tệ (141,37 tỉ USD) trái phiếu đặc biệt và được khuyến khích sử dụng hết hạn ngạch của tháng 5.

(Nguồn: vietnambiz.vn)

Tin tức thép Miền Bắc Nosco JSC

Thị trường thép Châu Á không nằm ngoài thiệt hại từ cuộc chiến chống COVID-19

Những người tham gia thị trường thép Châu Á đã chứng kiến ​​một tuần nữa trôi qua mà không có dấu hiệu ánh sáng ở cuối đường hầm do đại dịch coronavirus khi các quốc gia trong khu vực mở rộng các biện pháp phong tỏa, ngoại trừ Việt Nam.

Thị trường thép Châu Á không nằm ngoài thiệt hại từ cuộc chiến chống COVID-19

Trung Quốc, nước đã hỗ trợ giảm cung cho thị trường quốc tế bằng cách nhập khẩu thép gần đây, đã bắt đầu có dấu hiệu giảm bớt nhu cầu khi giá trong nước giảm.

Singapore, Indonesia, Philippines và Malaysia – 3 khách hàng đầu tiên của phôi thép và thép cây – có số lượng nhiễm COVID-19 cao nhất ở Đông Nam Á và tuần trước đã công bố gia hạn lệnh phong tỏa.

Điều này sẽ có nghĩa là thời gian bế tắc lâu hơn tại các công trường xây dựng bao gồm cả ở Singapore, nơi đã chứng kiến ​​khoảng 1.000 trường hợp nổ ra hàng ngày tại các ký túc xá công nhân nhập cư, dẫn đến việc gia hạn các biện pháp ngưng giao dịch tự động của họ đến ngày 1/ 6, ngày xa nhất trong số các quốc gia Châu Á đến nay, trong các biện pháp sẽ kéo dài 56 ngày.

Tại Philippines, một biện pháp mở rộng thứ hai đã được triển khai tại Metro Manila và các khu vực khác trên đảo Luzon, dẫn đến đóng cửa 61 ngày.

Các thương nhân phôi thép và thép cây cho biết họ hiện đang tập trung hơn vào việc đảm bảo thực hiện các giao dịch đã kết thúc trước đó và xử lý các yêu cầu hoãn giao hàng đến tháng 5 và tháng 6 hơn là đổ xô vào các giao dịch mới tại thời điểm mà hiệu suất hợp đồng có thể bị nghi ngờ.

Tuần trước cũng chứng kiến ​​sự bắt đầu của tháng Ramadan, một giai đoạn tạm lắng kéo dài theo tháng trong xây dựng. Mặc dù đã gia hạn đóng cửa một phần ở Jakarta cho đến ngày 22/5 trong tổng số 43 ngày, nhưng số lượng công nhân ở thủ đô Indonesia – nơi phần lớn các trường hợp COVID-19 của đất nước đã được báo cáo – dự kiến ​​sẽ trở về nhà của họ ngoài thành phố .

Ngay bây giờ, rất khó để nói ý nghĩa của lệnh mở rộng là gì, nhưng như chúng ta thấy, các dự án xây dựng và sản xuất thép vẫn được phép tiếp tục, một nguồn tin của nhà máy Indonesia cho biết. Vì vậy, tôi tin rằng các hoạt động của nhà máy sẽ không thay đổi nhiều so với hiện tại và sẽ tiếp tục ở mức thấp.

Việt Nam hết cách ly

Việt Nam, được coi là thành công trong việc ngăn chặn virus, đã không kéo dài thời gian cách ly 22 ngày sau ngày 22/ 4, nhưng nhu cầu cuộn nóng từ các nhà cán lại đã không phục hồi, chủ yếu là do nhu cầu ở nước ngoài yếu đối với cuộn cán nguội và thép mạ.

Tuy nhiên, các nhà cán lại đang ở vị thế thương lượng mạnh hơn do sự cung cấp c HRC từ Ấn Độ, Nga, Nhật Bản và Hàn Quốc, gây áp lực lên giá dưới 400 USD / tấn CFR Thành phố Hồ Chí Minh.

Do khó khăn trong việc khiến khách hàng đồng ý với giá niêm yết hàng tháng trong bối cảnh giá giao ngay HRC giảm 34 USD / tấn hoặc 8% trong tháng qua, nhà sản xuất hàng đầu Formosa Hà Tĩnh Steel đã từ bỏ cơ chế định giá niêm yết hàng tháng có lợi cho các cuộc đàm phán song phương, được hiểu là đã bắt đầu ở mức 410-415 USD/ tấn đối với hàng hóa vận chuyển trong tháng 6, giảm từ 470 USD/ tấn của tháng trước.

Nhu cầu tiêu thụ Trung Quốc suy yếu

Giá thép trong nước của Trung Quốc đã bắt đầu suy yếu có thể dẫn tới giảm khả năng hấp thụ thép thặng dư thế giới của quốc gia này thông qua hàng nhập khẩu gần đây.

Giá thép cây giao ngay tại Bắc Kinh đã giảm 60 NDT/tấn hay 1.7% trong tuần qua xuống còn 3.540 NDT/ tấn (500.10 USD/ tấn) vào thứ Sáu, trong khi giá HRC tại Thượng Hải giảm 45 NDT / tấn hoặc 1.4% so với cùng kỳ giai đoạn xuống 3.285 NDT / tấn xuất xưởng.

Những người tham gia thị trường cho biết, mặc dù mức tồn kho thép đã giảm trên cơ sở hàng tuần, nhưng chúng vẫn ở mức cao so với cùng kỳ năm ngoái.

Các giao dịch giao ngay cho phôi được bán vào Trung Quốc đã không được duy trì trong suốt tháng 4, một phần do các thương nhân có một phần tài chính của họ bị khóa trong gần 1 triệu tấn phôi được bán cho Trung Quốc trong quý đầu tiên.

Số lượng giao dịch phôi được quan sát trên cơ sở CFR Trung Quốc tính đến ngày 24/ 4 đã giảm xuống còn 6 với tổng khối lượng 150.000 tấn, so với 21 cho tổng khối lượng 760.000 tấn trong Q1, dữ liệu thị trường giao ngay biên soạn.

Nhu cầu thép trong nước của Trung Quốc có thể sẽ được hỗ trợ trong trung hạn bằng các biện pháp bền vững của chính phủ để hỗ trợ nền kinh tế, nhưng vẫn còn phải xem liệu có bất kỳ sự thúc đẩy nào đối với nhu cầu trong nước có thể khắc phục tình trạng thiếu đơn đặt hàng cho các sản phẩm Trung Quốc từ thị trường nước ngoài hay không phần còn lại của Châu Á tiếp tục giải quyết đại dịch.

(Nguồn: satthep.net)

Tin tức thép Miền Bắc Nosco JSC

Tình hình thị trường thép Việt Nam tháng 3/2020 và Quý I năm 2020

Trong bối cảnh thị trường ảm đạm toàn cầu nói chung, sản xuất và bán hàng các sản phẩm thép trong nước Qúy I năm 2020 có mức tăng trưởng âm lần lượt là 6,0% và 12,4% so với cùng kỳ năm 2019.

Tình hình thị trường nguyên liệu sản xuất thép:

  • Quặng sắt loại 62%Fe:Giá quặng sắt ngày 10/04/2020 giao dịch ở mức 83-84 USD/Tấn CFR cảng Thiên Tân, Trung Quốc, giảm khoảng 4-6 USD/tấn so với đầu tháng 3/2020.
  • Than mỡ luyện coke:Giá than mỡ luyện cốc, xuất khẩu tại cảng Úc (giá FOB) ngày 10/04/2020:
    – Hard coking coal: khoảng 120USD/tấn, giảm khoảng 20-25 USD/tấn so với đầu tháng 3/2020
  • Thép phế liệu: Giá thép phế HMS ½ 80:20 nhập khẩu cảng Đông Á ở mức 255-257 USD/tấn CFR Đông Á ngày 10/4/2020. Mức giá này giảm 12-15 USD/tấn so với hồi đầu tháng 3/2020. Nhìn chung, giá thép phế chào bán tại tất cả các thị trường Châu Á, Châu Mỹ và Châu Âu đều có xu hướng đi ngang và giảm, đặc biệt là Châu Á.
  • Điện cực graphite: Nhìn chung, giá than điện cực trong quý I/2020 tương đối ổn định, có tăng nhẹ hồi tháng 1/2020 sau đó giữ ở mức ổn định bình quân quý IV năm 2019. Mức giá giao dịch trung bình trong quý I là khoảng 2.500-3.000 USD/tấn FOB Trung Quốc (loại nhỏ).
  • Cuộn cán nóng HRC: Giá HRC ngày 10/04/2020 ở mức 400 USD/T, CFR cảng Đông Á, giảm sâu ở mức 50-55 USD/tấn so với mức giá hồi đầu tháng 3/2020. So với giá giao dịch HRC đầu năm 2020, mức giá này đã giảm 90-92 USD/tấn. Điều này sẽ rất khó khăn cho cả nhà sản xuất HRC trong nướccũng như các Doanh nghiệp cán dẹt sử dụng HRC làm nguyên liệu sản xuất.
Tình hình thị trường thép Việt Nam tháng 3/2020 và Quý I năm 2020

Tình hình sản xuất – bán hàng các sản phẩm thép:

Tháng 3/2020:

  • Sản xuất thép các loại đạt hơn 2.116.828 tấn, tăng 7,94so với tháng trước nhưng giảm 7,8so với cùng kỳ 2019.
  • Bán hàng thép các loại đạt 2.061.870 tấn, tăng 28,21% so với tháng 2/2020, nhưng giảm 3,6% so với cùng kỳ 2019; Trong đó, xuất khẩu thép các loại đạt 422.185 tấn, tăng 22,12% so với tháng trước, nhưng giảm 1,7% so với cùng kỳ tháng 3/2019.
Tin tức thép Miền Bắc Nosco JSC

Tính chung Quý I năm 2020:

  • Sản xuất thép các loại đạt hơn 5.728.408 tấn, giảm 6so với  cùng kỳ 2019;
  • Bán hàng đạt 5.034.580 tấn, giảm 12,4so với cùng kỳ 2019.
  • Trong đó, xuất khẩu thép các loại đạt 1.024.908 tấn, giảm 21,3% so với Quý I năm 2019.
Tình hình thị trường thép Việt Nam tháng 3/2020 và Quý I năm 2020

Tình hình xuất nhập khẩu các sản phẩm thép tháng 2/2020:

Tình hình nhập khẩu:

-Tính đến hết tháng 02/2020, nhập khẩu sắt thép thành phẩm vào Việt Nam hơn 1,9 triệu tấn, với trị giá 1,18 triệu USD.Như vậy, về lượng thép nhập khẩu giảm 2,3%, và giảm 13,2% về trị giá nhập khẩu so với cùng kỳ 2 tháng/2019;

-Sau 2 tháng, lượng thép nhập khẩu từ Trung Quốc là 412 ngàn tấn, với trị giá nhập khẩu hơn 266 triệu USD, chiếm 20,9% tổng lượng thép nhập khẩu và 22,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước.

Tin tức thép Miền Bắc Nosco JSC
Tình hình nhập khẩu các sản phẩm thép đến tháng 2/2020

Tình hình xuất khẩu:

-Tháng 2/2020, Việt Nam xuất khẩu ra thị trường nước ngoài đạt 691 ngàn tấn, với kim ngạch đạt 384 triệu USD. So với tháng 1/2020 và cùng kỳ năm 2019, lượng xuất khẩu trên tăng khá lần lượt là 43% và 50% về lượng.

-Về trị giá xuất khẩu thép tháng 2/2020 đạt 384 triệu USD, tăng lần lượt so với tháng 1/2020 và cùng kỳ năm trước là 44% và 32%.

Tin tức thép Miền Bắc Nosco JSC
Top 10 thị trường xuất khẩu của Việt Nam tính đến tháng 2/2020

(Nguồn: Bản tin Hiệp hội Thép tháng 4/2020)

Tin tức thép Miền Bắc Nosco JSC

Mỹ đẩy mạnh nhập khẩu thép trong đại dịch COVID-19

Đại dịch COVID-19 lan rộng tại Mỹ khiến sản xuất thép tại quốc gia này sụt giảm đáng kể trong ba tháng đầu năm. Trong khi đó, các sản phẩm thép nhập khẩu chủ yếu từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức… tăng mạnh so với cùng kì năm ngoái.

Trong tuần 18 – 25/4, sản lượng thép thô của Mỹ đạt hơn 1,2 triệu tấn, giảm 34% so với cùng kì năm ngoái. Công suất hoạt động trong tuần chỉ đạt 55,8% trong khi cùng kì lên tới 81%. Đáng chú ý, sản lượng cũng sụt giảm 2,1% so với tuần trước đó (11 – 18/4), theo thông tin từ SteelHome.

Lũy kế đến ngày 25/4, lượng thép thô tại Mỹ ghi nhận gần 29 triệu tấn, giảm 8,3% so với cùng kì; tỉ lệ công suất hoạt động đạt 75%.

Theo Cục điều tra dân số sơ bộ, Mỹ nhập khẩu 1,75 triệu tấn thép vào tháng 3, bao gồm 1,51 triệu tấn thép thành phẩm, tăng tương ứng 16% và 12% so với cuối tháng 2. Trong ba tháng đầu năm, lượng nhập khẩu lên tới 6,4 triệu tấn, gồm 4,5 triệu tấn thành phẩm và đều giảm trên 22% so với cùng kì năm ngoái. Thị phần nhập khẩu thép thành phẩm trong tháng 3 và ba tháng đầu năm ước đạt 17%.

Mỹ đẩy mạnh nhập khẩu thép trong đại dịch COVID-19
Nguồn: Tổng hợp theo Hiệp hội Sắt thép Mỹ

Các quốc gia xuất khẩu thép thành phẩm nhiều nhất qua Mỹ trong tháng 3 chủ yếu là Hàn Quốc với 205.000 tấn, tăng 29% so với cùng kì; Đức đạt 69.000 tấn, tăng 33%; Đài Loan tăng 87% lên 61.000 tấn, Tây Ban Nha tăng hơn 5 lần lên 42.000 tấn. Lũy kế ba tháng đầu năm, lượng xuất khẩu từ Hàn Quốc đạt 545.000 tấn, Nhật Bản đạt 202.000 tấn, Đức khoảng 169.000 tấn, giảm tương ứng 24%, 39%, 45%.

Đồng thời, nhu cầu một số sản phẩm thép của Mỹ tăng đáng kể so với tháng 2 gồm đường ống thép (tăng 93%), ống thép kết cấu (tăng 52%), tấm cuộn cán nguội (tăng 30%), thép dây cuộn (tăng 22%), thép thanh cán nóng (tăng 18%).

Ước tính trong quí IV/2019, Mỹ nhập khẩu 30,4 triệu tấn thép, giảm 400.000 tấn so với cùng kì năm 2018 và giảm 200.000 tấn so với quí III/2019.

(Nguồn: Vietnambiz)

Tin tức Thép Miền Bắc

Worldsteel: Sản lượng thép châu Âu sụt giảm mạnh trong đại dịch COVID-19

Quý I vừa qua, tình hình sản xuất thép thô của nhiều nước trên thế giới đều đi xuống. Đáng chú ý, một số quốc gia châu Âu như Ý, Đức, Pháp chịu sự sụt giảm nhiều nhất do dịch COVID-19 lây lan mạnh.

Theo Hiệp hội thép Thế giới (Worldsteel), sản lượng thép thô toàn cầu đạt 443 triệu tấn trong ba tháng đầu năm, giảm 1,4% so với cùng kì năm 2019. 

Trong đó, sản xuất thép thô tại châu Á giảm 0,3% còn 315,2 triệu tấn. Bên cạnh đó, EU đã sản xuất 38,3 triệu tấn, giảm 10% so với cùng kì. Bắc Mỹ giảm 4% còn 29,5 triệu tấn.

Tính riêng tháng 3, Trung Quốc sản xuất khoảng 79 triệu tấn thép thô, giảm 1,7% so với cùng kì năm ngoái. Ấn Độ ước tính khoảng 8,7 triệu tấn, giảm gần 14%. Nhật Bản và Hàn Quốc ước tính lần lượt đạt 8,2 và 5,8 triệu tấn thép thô, giảm tương ứng 9,7% và 8% so với cùng kì. Ngoài ra, sản xuất thép tại Mỹ giảm 6% còn khoảng 7,2 triệu tấn.

Tại EU, một số quốc gia gồm Đức, Ý, Pháp ước lượng sản xuất thép thô đạt lần lượt 2,9 triệu tấn, 1,4 triệu tấn và 1,2 triệu tấn, giảm mạnh 21%, 40% và 13% so với cùng kì năm ngoái. Tây Ban Nha cũng ghi nhận giảm 15% còn 1,2 triệu tấn.

Worldsteel: Sản lượng thép châu Âu sụt giảm mạnh trong đại dịch COVID-19 - Ảnh 1.

Tại Việt Nam, sản xuất thép các loại đạt hơn 2,1 triệu tấn trong tháng 3, tăng 7,9% so với tháng 2 nhưng giảm 7,8% so với cùng kì năm 2019, theo Hiệp hội thép Việt Nam (VSA).

Bán hàng thép các loại đạt hơn 2 triệu tấn, tăng 28% so với tháng 2, nhưng giảm 3,6% so với cùng kì. Trong đó, xuất khẩu thép các loại giảm 1,7% còn khoảng 422.185 tấn.

Trong ba tháng đầu năm, sản xuất thép các loại đạt hơn 5,7 triệu tấn, giảm 6% so với cùng kì; bán hàng giảm 12,4% còn hơn 5 triệu tấn, giảm 12,4%. Trong đó, xuất khẩu thép các loại đạt trên 1 triệu tấn, giảm 21,3% so với cùng kì. 

Theo VSA, tính đến hết tháng 2, nhập khẩu sắt thép thành phẩm vào Việt Nam đạt gần 2 triệu tấn, với trị giá 1,18 triệu USD. Như vậy, thép nhập khẩu giảm 2,3% về lượng và giảm 13,2% về trị giá nhập khẩu so với cùng kì năm ngoái 2. 

Lũy kế hai tháng, lượng thép nhập khẩu từ Trung Quốc ghi nhận 412.000 tấn, với trị giá nhập khẩu hơn 266 triệu USD, chiếm 21% tổng lượng thép nhập khẩu và 22,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước. 

Về hoạt động xuất khẩu, Việt Nam đưa ra thị trường nước ngoài 691.000 tấn sắt thép trong tháng 2, với kim ngạch đạt 384 triệu USD. So với tháng 1/2020 và cùng kì năm 2019, lượng xuất khẩu trên tăng trưởng lần lượt 43% và 50%. Bên cạnh đó, giá trị xuất khẩu thép đạt 384 triệu USD, tăng lần lượt 44% và 32% so với tháng 1 và cùng kì năm ngoái.

(Nguồn: vietnambiz)

Thép Miền Bắc tin tức

Giá thép cán nóng, thép thanh Trung Quốc tăng trở lại

Trong tuần 10 – 17/4, hàng tồn kho thị trường thép Trung Quốc tiếp tục giảm, nhu cầu hạ nguồn nhìn chung có cải thiện, đặc biệt là thép thanh, thép dây cuộn và thép cán nóng. Tuy nhiên, nguồn cung vẫn gia tăng. Sự lây lan của dịch COVID-19 ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến xuất khẩu thép toàn cầu.

Tính đến ngày 16/4, tồn kho 5 sản phẩm thép Trung Quốc đạt hơn 21.7 triệu tấn tại 33 thành phố và các cảng, giảm hơn 1 triệu tấn, tương đương 4,4% so với tuần trước đó (3 – 10/4), theo số liệu của SteelHome.

Đối với thép cuộn cán nóng, mức giá HRC Q235 2,75mm tại 28 khu vực sản xuất chính tăng 25 nhân dân tệ/tấn so với cuối tuần trước đó, đạt 3.530 nhân dân tệ/tấn. Khối lượng giao dịch và hàng tồn kho giảm cho thấy nhu cầu hạ nguồn đang tăng lên. Tuy nhiên, thị trường vẫn có thể dư cung khi các nhà máy thép tăng sản lượng HRC.

Thép dải cán nóng cũng giao dịch tích cực trong tuần. Doanh số của các nhà máy sản xuất ống thép tăng mạnh và giá xuất xưởng tăng theo. Tại ngày 17/4, giá thép dải kích thước 2,75mm*235mm ghi nhận 3.504 nhân dân tệ/tấn, tăng 41 nhân dân tệ/tấn so với tuần trước đó; trong khi giá thép 5,5mm*685mm tăng 36 nhân dân tệ/tấn lên 3.492 nhân dân tệ/tấn.

Đối với thép cuộn cán nguội, tính đến ngày 17/4, giá CRC 0,5mm và SPCC 1mm giảm hơn 10 nhân dân tệ/tấn xuống còn lần lượt 4.131 nhân dân tệ/tấn và 3.899 nhân dân tệ/tấn.

Giá thép cán nóng, thép thanh Trung Quốc tăng trở lại - Ảnh 1.
Giá thép không gỉ tại các khu vực lớn của Trung Quốc. Nguồn: SteelHome

Thị trường thép không gỉ cũng chịu nhiều biến động. Cụ thể, giá thép không gỉ 304S và 201S tăng mạnh nhưng giá 430S giảm nhẹ. Giá nguyên liệu đầu vào như cũng nikel tăng nhẹ. Một số nhà sản xuất thép không gỉ lớn như TISCO, Eastern Special Steel, Hongwang Group tăng mạnh giá thép trong tuần qua.

Trên sàn giao dịch Thượng Hải, hợp đồng tương lai thép không gỉ 304 giao tháng 6 tăng 490 nhân dân tệ/tấn lên 12.945 nhân dân tệ/tấn kể từ ngày 10/4.

Tại thị trường Foshan, tồn kho thép không gỉ của 15 nhà kho đạt 281.000 tấn tính đến ngày 15/4, giảm 49.000 tấn so với ngày 30/3, bao gồm 152.000 tấn sản phẩm thép cán nguội (CR) và 129.000 tấn sản phẩm thép cán nóng (HR).

Trong khi đó, tại thị trường Wuxi, lượng tồn kho giảm 52.000 tấn xuống còn 486.000 tấn, bao gồm 236.000 tấn CR và 250.000 tấn HR.

Đối với thép xây dựng, giá thép dây cắt nhanh HPB300 8mm và thép thanh HRB400 18-25mm đạt tương ứng 3.720 nhân dân tệ/tấn và 3.586 nhân dân tệ/tấn, tăng 10 và 16 nhân dân tệ/tấn so với ngày 10/4.

Việc đẩy mạnh đầu tư vào các dự án lớn và xây dựng cơ sở hạ tầng khiến khối lượng giao dịch thép tăng lên, tồn kho giảm xuống và giá thép tăng nhẹ. Tuy vậy, áp lực nguồn cung vẫn khó giảm xuống khi tốc độ vận hành lò cao tại các nhà máy đạt kỉ lục, mặc dù tỉnh Đường Sơn đã bắt đầu giới hạn sản xuất để bảo vệ môi trường.

Đối với thị trường thép tấm, giá Q235 kích cỡ trung bình đạt 3.985 nhân dân tệ/tấn và Q 235 20mm đạt 3.686 nhân dân tệ/tấn, tăng nhẹ so với tuần trước đó.

Theo Hiệp hội Công nghiệp đóng tàu Quốc gia, trong ba tháng đầu năm, tổng trọng tải đóng tàu hoàn thành của Trung Quốc đạt 7 triệu DWT, giảm 27% so với cùng kì năm ngoái. Đơn đặt hàng tàu mới tăng 6,5% lên 4,9 triệu DWT. Vào cuối tháng 3, lượng đơn đặt hàng bổ sung giảm 6% so với cùng kì còn 79,6 triệu DWT. Dự kiến xuất khẩu đóng tàu sẽ sụt giảm trong dịch COVID-19.

Thị trường thép kết cấu cũng biến động theo xu hướng giảm trong tuần qua. Các nhà máy cho biết sẽ giảm giá xuất xưởng khoảng 150 – 200 nhân dân tệ/tấn đối với dòng thép này. Hàng tồn kho thép đặc biệt giảm 33.000 tấn còn 728.600 tấn, theo số liệu của SteelHome.

Giá thép mạ màu và thép tấm Trung Quốc diễn biến trái chiều. Cụ thể, giá thép mạ kẽm trung bình 0,5mm và 1,0mm của 18 khu vực sản xuất chính là 4.598 nhân dân tệ/tấn và 4.292 nhân dân tệ/tấn, không đổi so với tuần trước. 

Tuy nhiên, giá thép mạ màu 0,326mm và 0,476mm giảm tương ứng 13 nhân dân tệ/tấn và 17 nhân dân tệ/tấn xuống còn 5.745 nhân dân tệ/tấn và 5.497 nhân dân tệ/tấn. Cả hai Tập đoàn Shougang và Benxi đều giảm giá xuất xưởng của thép mạ kẽm, thép mạ màu trong tháng 5.

Giá thép cán nóng, thép thanh Trung Quốc tăng trở lại - Ảnh 2.

(Nguồn: vietnambiz)

Tin tức thép miền bắc

Thế giới sau dịch Covid-19 (kỳ 3): Ngoại giao thời dịch bệnh

Dịch Covid-19 đưa lại những thay đổi gì trong ngoại giao? Ngoại giao đóng vai trò thế nào ở thời kỳ trong và sau dịch bệnh? Phân tích của báo Thế giới & Việt Nam.

Thế giới sau dịch Covid-19 (kỳ 3): Ngoại giao thời dịch bệnh
Dịch bệnh làm thay đổi trước hết phương thức vận hành của ngoại giao, làm thay đổi cơ bản mối tương quan về hàm lượng giữa ngoại giao trực tiếp và ngoại giao trực tuyến.

Ngoại giao thường được hiểu theo cách mỹ miều là “nghệ thuật biến cái không thể thành có thể”.

Trong thực chất, ngoại giao là nghệ thuật xử lý các mối quan hệ phục vụ cho lợi ích. Lợi ích định hướng và chi phối ngoại giao. Theo định hướng và dưới sự chi phối ấy, ngoại giao thường bị tác động ở mức độ quyết định nhất bởi thực lực bao gồm sức mạnh cứng và sức mạnh mềm, bởi môi trường chính trị an ninh, đối ngoại và kinh tế đối ngoại cũng như bởi truyền thống, bản sắc và trường phái ngoại giao riêng.

Uy tín và vị thế quốc tế thời dịch bệnh

Dịch bệnh viêm phổi cấp Covid-19 do virus corona gây ra đã làm cho ngoại giao ở mọi nơi trên thế giới thay đổi và buộc phải thay đổi. Đột nhiên, môi trường chính trị an ninh, đối ngoại và kinh tế đối ngoại khác trước rất cơ bản. Đột nhiên, thế và lực của quốc gia biến động. Dịch bệnh gây ra cho các quốc gia và đối tác những vấn đề mới và thách thức mới mà các quốc gia và đối tác phải dành ưu tiên hàng đầu cho việc giải quyết chúng và vượt qua chúng. Thành tố khả biến trong lợi ích quốc gia vì thế phải được xác định lại, phải được xếp đặt thứ tự ưu tiên mới và từ đó đặt ra những sứ mệnh mới cho ngoại giao.

Nếu ví tất cả các nước, các vùng lãnh thổ và các đối tác trên thế giới là học sinh trong cùng một lớp học thì dịch bệnh này giống như một bài thi mà qua kết quả bài làm của học sinh có thể không chỉ phân loại được trình độ học vấn mà qua đó còn biết được cách học nào đã giúp cho hay khiến cho học sinh có thể đạt được trình độ học vấn ấy hay chỉ đạt được trình độ học vấn ấy.

Nói theo cách khác, uy tín và vị thế quốc tế của quốc gia và đối tác tăng hay giảm tuỳ thuộc vào quốc gia hay đối tác ấy đối phó đại dịch thành công hay thất bại, kiềm chế và kiểm soát được đại dịch nhanh chóng hay chậm trễ, trả giá đắt hay không đắt cho mức độ lây lan và hoành hành của dịch bệnh, chung sống với dịch bệnh và ra khỏi dịch bệnh như thế nào, đồng thuận và ổn định chính trị ra sao ở thời dịch bệnh.

Nói theo cách khác và đơn giản hoá, vị thế và uy tín quốc tế của quốc gia và đối tác ở thời dịch bệnh sẽ tăng hay giảm tuỳ thuộc vào mức độ tin tưởng và tín nhiệm của người dân ở đấy dành cho chính quyền ở đấy. Vì thế, dịch bệnh gây khó khăn và phức tạp như nhau cho ngoại giao ở mọi nơi trên thế giới nhưng không tạo ra thuận lợi và cơ hội như nhau.

Ngoại giao trực tuyến và trực tiếp

Dịch bệnh làm thay đổi trước hết phương thức vận hành của ngoại giao. Nó làm thay đổi cơ bản mối tương quan về hàm lượng giữa ngoại giao trực tiếp và ngoại giao trực tuyến. Trực tiếp hay trực tuyến thì cũng đều chỉ là công cụ và phương cách ngoại giao. Chúng bổ sung cho nhau và hỗ trợ lẫn nhau nhưng không thể thay thế được hoàn toàn cho nhau. Ở thời còn vì dịch bệnh mà ngoại giao trực tiếp bị hạn chế hoặc bất khả thi thì ngoại giao trực tuyến không những chỉ thắng thế mà còn rất cần thiết. Nhưng ở thời sau dịch bệnh, ngoại giao trực tiếp sẽ nhanh chóng lấy lại vị thế và phong độ bẩm sinh của nó và ngoại giao trực tuyến đảm trách vai trò của cộng sự đắc lực và tin cậy.

Ở thời dịch bệnh hiện tại, ngoại giao phải phục vụ cho 3 mục tiêu chiến lược hàng đầu, cũng có thể coi là ba nội hàm cụ thể mới trong phần khả biến của lợi ích quốc gia.

Thứ nhất, nhanh chóng kiểm soát dịch bệnh, không để dịch bệnh tiếp tục lây lan, đẩy lùi hoàn toàn dịch bệnh và không để dịch bệnh tái bùng phát theo bất cứ cách nào và dưới bất kỳ hình thức nào;

Thứ hai, khôi phục cũng mau lẹ và hoàn toàn như có thể được hoạt động kinh tế và đời sống của cả xã hội cũng như của người dân để giảm thiểu tối đa và nhanh chóng khắc phục những thiệt hại và tổn hại mà dịch bệnh đã gây ra;

Thứ ba, luôn giữ cái nhìn về thời sau dịch bệnh để chuẩn bị sẵn sàng đón bắt và tận dụng những cơ hội và tiền đề mới cho phát triển kinh tế xã hội. Nếu có thể được thì phải làm đồng thời cả ba việc ấy.

Thế giới sau dịch Covid-19 (kỳ 3): Ngoại giao thời dịch bệnh
Vị thế và uy tín quốc tế của quốc gia và đối tác ở thời dịch bệnh sẽ tăng hay giảm tuỳ thuộc vào mức độ tin tưởng và tín nhiệm của người dân ở đấy dành cho chính quyền. (Tác phẩm Chung sức đồng lòng chống Covid-19 của họa sĩ Đỗ Như Điểm).

Để thực thi được sứ mệnh mới ở thời dịch bệnh, ngoại giao phải chủ động và năng động, phải sáng tạo và cầu thị hơn trước đấy rất nhiều. Ngoại giao trực tuyến nghe qua thì đơn giản nhưng để được suôn xẻ về kỹ thuật, yên tâm về bảo mật và đặc biệt thật sự thiết thực trong hiệu quả thì không ít vấn đề mới đòi hỏi ngoại giao phải giải quyết, không ít yêu cầu mới đòi hỏi ngoại giao phải đáp ứng. Ngoại trừ một vài đối tác ra, chứ còn đối với đại đa số các đối tác khác trên thế giới, dịch bệnh này không làm thay đổi cơ bản cả bản chất, định hướng lẫn nội dung chính sách đối ngoại của họ. Bởi vậy, ngoại giao ở thời dịch bệnh tập trung đóng góp vào việc giải quyết những vấn đề cụ thể.

Ba vấn đề đặt ra cho ngoại giao

Con người bộc lộ đầy đủ nhất và rõ nét nhất bản chất trong những tình huống đặc biệt. Bản chất và thực chất của các mối quan hệ song phương và đa phương giữa các quốc gia và đối tác cũng như thế. Ngoại giao ở thời dịch bệnh trước tiên phải xác định lại ưu tiên chung cũng như ưu tiên trên từng phương diện và trong từng mối quan hệ để định hình lại việc tổ chức triển khai thực hiện.

Thúc đẩy quan hệ với các đối tác bằng hỗ trợ lẫn nhau tuỳ theo khả năng để cùng nhau ứng phó và đầy lùi dịch bệnh, hợp tác và trợ giúp lẫn nhau trong việc bảo hộ công dân, tạo thuận lợi hơn trước để thúc đẩy quan hệ hợp tác và trao đổi thương mại,…. tức là thích ứng hoá việc vận hành các mối quan hệ song phương cũng như đa phương vào bối cảnh tình hình mới là dịch bệnh còn tác động và tất cả còn phải cùng chung sống với dịch bệnh chưa biết đến khi nào mới bước sang thời sau dịch bệnh.

Dịch bệnh chi phối và lấn át mọi chủ đề nội dung khác trên chương trình nghị sự của chính trị thế giới và quan hệ quốc tế nhưng không phải là còn lại duy nhất trên đó. Bởi thế, ngoại giao vẫn phải tập trung quan tâm cả vào đấy chứ không thể sao nhãng, vẫn phải làm những gì có thể làm được chứ không bỏ gác lại.

Ở thời dịch bệnh này có 3 vấn đề đặt ra cho ngoại giao

Thứ nhất là đóng góp thiết thực vào việc định hình và tổ chức cuộc chung sống của toàn quốc gia với dịch bệnh. Nhiệm vụ của ngoại giao không chỉ là duy trì và thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác đã có với thế giới bên ngoài trong thời buổi dịch dã mà còn tư vấn chính sách cho những giải pháp cụ thể của nhà nước như nới lỏng cách ly và giãn cách xã hội để dần bình thường trở lại theo lộ trình thời gian, mức độ, lĩnh vực và phạm vi địa lý như thế nào để đồng thời đáp ứng được yêu cầu về chống dịch và đạt được mục tiêu đảm bảo sức khoẻ cho người dân và phát triển kinh tế xã hội đất nước. Chừng nào còn dịch bệnh thì chừng ấy các quốc gia và đối tác sẽ còn phải quyết định lựa chọn hy sinh lợi ích của ngành nhóm nhất định nào đấy để phát triển những ngành nhóm khác giúp phục hồi tăng trưởng kinh tế và cải thiện an sinh xã hội mà dịch bệnh không thể bùng phát trở lại.

Thứ hai là đóng góp vào việc tìm kiếm và vận hành lối ra khỏi dịch bệnh cho quốc gia. Cả ở đây những tiêu chí đúng về định hướng và nội dung, về thời điểm và lộ trình, về mức độ và đối tượng cũng đóng vai trò rất quyết định.

Và thứ ba là khuyến nghị những sửa đồi, điều chỉnh và bổ sung cho chính sách chung của quốc gia ở thời sau dịch bệnh, trong đó liên quan đến quan hệ song phương và hội nhập quốc tế, đến các hình thức và cấp độ của quan hệ đối tác chiến lược với đối tác bên ngoài. Mục đích ở đây không phải là làm cái mới khi chưa thật sự cần đến mà trước hết là thực chất hoá và thích ứng hoá với bối cảnh tình hình và điều kiện mới ở thời sau dịch bệnh.

(Nguồn: MSN)

  • GÓP Ý

    Contact Form

  • Giờ làm việc: 8:00 - 17:30