Theo thống kê từ chính phủ Trung Quốc, tổng sản lượng thép thô trong tháng 3 của Trung Quốc là khoảng 79 triệu tấn, giảm 1.7% so với năm trước; tổng sản lượng quặng sắt là khoảng 67 triệu tấn, tăng 1.1% so với năm trước; tổng sản lượng các sản phẩm thép là khoảng 99 triệu tấn, giảm 0.1% so với năm trước.
Lý do chính cho sự suy giảm là do việc mở rộng COVID-19, và ngày càng nhiều nhà máy thép mới bắt đầu hoạt động trở lại vào tháng 3.
Ngoài ra, thị trường dự kiến tổng sản lượng thép thô có thể tăng thêm trong tháng 4 và sẽ đạt 81 triệu tấn, nhưng tốc độ tăng có thể bắt đầu chậm lại trong tháng 5.
Dự báo tháng 4 của World Steel Dynamics (WSD) cho thấy sản lượng thép thô toàn cầu sẽ giảm 12.9% xuống còn khoảng 1.6 tỷ tấn vào năm 2020 do nhu cầu tiêu thụ cuối thấp hơn.
Sản lượng ở các nước phát triển sẽ giảm 22.7% xuống 354 triệu tấn, tại các thị trường mới nổi sẽ giảm 9.7% xuống còn khoảng 1.28 triệu tấn, và tại Trung Quốc đã giảm 5.6% xuống còn 940 triệu tấn.
Sản lượng thép thô toàn cầu trong quý đầu năm nay là 443 triệu tấn, giảm 1.4% so với cùng kỳ năm ngoái, theo Hiệp hội Thép Thế giới (worldsteel), cho thấy sắc nét hơn suy giảm trong Q2- Q4.
Giá thép thanh giao tháng 10 trên Sàn giao dịch Thượng Hải tăng 70 nhân dân tệ lên 3.368 nhân dân tệ/tấn vào lúc 9h15 (giờ Việt Nam).
Giá thép xây dựng hôm nay Giá thép thanh giao tháng 10 trên Sàn giao dịch Thượng Hải tăng 70 nhân dân tệ lên 3.368 nhân dân tệ/tấn vào lúc 9h15 (giờ Việt Nam).
Giá quặng sắt sẽ giảm trong những tháng tới vì đại dịch virus corona tác động tới nhu cầu mặc dù ghi nhận sự vượt trội so với các mặt hàng công nghiệp khác trong năm nay, theo Reuters.
Giá quặng sắt giao ngay hàm lượng 62% giao cho Trung Quốc ở mức 84 USD/tấn vào thứ Tư (29/4) và dự kiến sẽ giảm xuống còn 75 USD/tấn vào quý IV.
Giá có thể vẫn ổn định trong ngắn hạn, nhưng việc đóng cửa các nhà sản xuất thép và nguồn cung cải thiện sẽ dần dần tác động tới giá.
Colin Hamilton, Giám đốc nghiên cứu hàng hóa tại BMO Capital, cho biết giá quặng sắt sẽ giảm nhưng không quá đáng kể, vẫn mang lại lợi nhuận cao cho các nhà sản xuất.
Bất chấp các biện pháp ngăn chặn sự lây lan COVID-19, nhu cầu quặng sắt vẫn ổn định tại Trung Quốc khi dự trữ tại các cảng đã giảm 10% trong năm nay.
Trong khi sản xuất thép của Trung Quốc đang tăng lên, các biện pháp phong tỏa ở các quốc gia khác đã khiến các nhà máy đóng cửa vì nhu cầu khách hàng giảm mạnh. Vào tháng 3, sản lượng thép thô tại Liên minh châu Âu giảm tới 20%, tại Nhật giảm 10%.
Các yếu tố khiến giá quặng sắt ổn định trong thời gian qua là bão nhiệt đới ở Australia và mưa lớn ở Brazil, làm hạn chế nguồn cung từ hai nhà sản xuất quặng sắt lớn nhất thế giới.
Tuy nhiên các chuyến hàng từ Úc phần lớn đã trở lại bình thường và từ Brazil cũng đang tăng dần mặc dù nhà sản xuất quặng sắt lớn nhất thế giới, Vale SA, đã hạ dự báo sản xuất trong năm nay.
Các chuyên gia phân tích có các ước tính khác nhau về đà giảm của giá quặng sắt, với Ngân hàng Morgan Stanley dự kiến giá giảm từ 83 USD/tấn trong quí II xuống còn 78 USD/tấn trong 3 tháng cuối năm, trong khi Ngân hàng Liberum cho rằng giá có thể chỉ còn 50 USD/tấn.
Một số yếu tố bù đắp cho đà giảm của quặng sắt khi xuất khẩu từ các nhà sản xuất hàng đầu như Vale, BHP và Rio Tinto sẽ bị ảnh hưởng do giá cước vận chuyển tăng trong bối cảnh dịch bệnh chưa được kiểm soát.
Giá thép thanh giao tháng 5 trên Sàn giao dịch Thượng Hải tăng mạnh 70 nhân dân tệ lên 3.367 nhân dân tệ/tấn vào lúc 9h45 (giờ Việt Nam).
Giá thép xây dựng hôm nay
Giá thép thanh giao tháng 5 trên Sàn giao dịch Thượng Hải tăng mạnh 70 nhân dân tệ lên 3.367 nhân dân tệ/tấn vào lúc 9h45 (giờ Việt Nam).
Hợp đồng quặng sắt giao sau của Trung Quốc kết thúc phiên thứ Năm (30/4) ghi nhận mức tăng hàng tháng vì hy vọng nhu cầu được cải thiện sau khi dữ liệu cho thấy hoạt động sản xuất tại nước này mở rộng trong tháng thứ hai liên tiếp, theo Reuters.
Hợp đồng quặng sắt giao tháng 9 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên tăng 2,5% lên 610 nhân dân tệ/tấn (tương đương 86,38 USD/tấn), đánh dấu mức tăng hàng tháng là 5,35%.
Chỉ số quản lí thu mua sản xuất (PMI) ở mức 50,8 trong tháng 4 khi nhiều doanh nghiệp nối lại hoạt động mặc dù việc phong tỏa và nhu cầu toàn cầu suy yếu có thể cản trở sự phục hồi kinh tế, Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc cho biết.
Giá cũng được hỗ trợ nhờ nhu cầu bổ sung dự trữ khi Bắc Kinh nối lại việc thu phí đường cao tốc từ ngày 6/5, điều này sẽ làm tăng chi phí hậu cần.
Hiện tại, việc miễn phí thu phí đường cao tốc có thể giúp giảm chi phí vận chuyển quặng sắt 0,1 – 0,073 nhân dân tệ/tấn trên mỗi km.
Giá than luyện cốc tăng vọt 3,8% lên 1.078 nhân dân tệ/tấn và kết thúc phiên tăng 2,9% lên 1.069 nhân dân tệ/tấn.
Giá than cốc tăng 2,5% lên 1.693 nhân dân tệ/tấn.
Thị trường tài chính ở Trung Quốc đại lục sẽ đóng cửa từ ngày 1 – 5/5 trong dịp Lễ Quốc tế Lao Động.
Chốt phiên giao dịch ngày 29/4, giá dầu thô Mỹ tăng mạnh 22%, đồng cao nhất 6 tuần, kẽm cao nhất hơn 1 tuần, trong khi khí tự nhiên, vàng và quặng sắt giảm.
Giá dầu thô Mỹ tăng mạnh 22%
Giá dầu thô Mỹ tăng mạnh 22% sau khi tồn trữ dầu thô của nước này tăng ít hơn so với dự kiến và tồn trữ xăng giảm, làm gia tăng lạc quan tiêu thụ nhiên liệu sẽ hồi phục khi một số nước châu Âu và tiểu bang Mỹ nới lỏng các hạn chế do virus corona.
Chốt phiên giao dịch ngày 29/4, dầu thô Brent tăng 2,08 USD tương đương 10,2% lên 22,54 USD/thùng và dầu thô Tây Texas WTI tăng 2,72 USD tương đương 22% lên 15,06 USD/thùng.
Tồn trữ dầu thô của Mỹ trong tuần trước tăng 9 triệu thùng lên 527,6 triệu thùng, thấp hơn 7 triệu thùng so với mức cao kỷ lục và thấp hơn so với dự kiến tăng 10,6 triệu thùng của các nhà phân tích, Cơ quan Thông tin Năng lượng cho biết. Đồng thời, tồn trữ xăng của Mỹ giảm xuống 3,7 triệu thùng so với mức cao kỷ lục tuần trước đó, do nhu cầu nhiên liệu tăng làm lu mờ sản lượng lọc dầu hồi phục.
Giá khí tự nhiên tiếp đà giảm
Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm do dự báo thời tiết ôn hòa hơn và nhu cầu giảm, đặc biệt là nhu cầu xuất khẩu trong 2 tuần tới thấp hơn so với dự kiến.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 6/2020 trên sàn New York giảm 7,9 US cent tương đương 4,1% xuống 1,869 USD/mmBTU. Tuy nhiên, con số này vẫn cao hơn 7% so với giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 5/2020 đã hết hiệu lực.
Giá vàng giảm tiếp
Giá vàng giảm do lạc quan xung quanh việc nới lỏng các hạn chế do virus corona và kỳ vọng một loại thuốc điều trị tiềm năng thúc đẩy nhu cầu tài sản rủi ro, trong khi các nhà đầu tư chờ đợi tuyên bố chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ vào cuối ngày.
Vàng giao ngay trên sàn LBMA giảm 0,4% xuống 1.701,36 USD/ounce, sau khi giảm trong 3 phiên liên tiếp trước đó và vàng kỳ hạn tháng 6/2020 trên sàn New York giảm 0,5% xuống 1.713,4 USD/ounce.
Giá đồng cao nhất 6 tuần, kẽm cao nhất hơn 1 tuần
Giá đồng tăng lên mức cao nhất 6 tuần do triển vọng nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – tăng mạnh và sản xuất bị gián đoạn vượt xa kỳ vọng nguồn cung từ các nước sản xuất bị đóng cửa bởi virus corona tăng.
Giá đồng trên sàn London tăng 0,7% lên 5.261 USD/tấn, trước đó trong phiên giá đồng đạt 5.280 USD/tấn, tăng 20% kể từ mức thấp nhất 4 năm (4.371 USD/tấn) trong ngày 19/3/2020.
Hoạt động nhà máy Trung Quốc tăng tháng thứ 2 liên tiếp trong tháng 4/2020 do nhiều doanh nghiệp mở cửa trở lại từ việc đóng cửa nhằm ngăn chặn virus corona bùng phát, làm tê liệt nền kinh tế toàn cầu.
Đồng thời, giá kẽm giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,7% lên 1.945 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 1.949 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 20/4/2020, do lo ngại nguồn cung một số nước sản xuất lớn đóng cửa bởi virus corona.
Giá thép biến động nhẹ, quặng sắt giảm
Giá thép biến động trong phạm vi hẹp, khi các nhà đầu tư chờ xem những diễn biến tác động đến nhu cầu từ các biện pháp kích thích cơ sở hạ tầng của chính phủ Trung Quốc.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây kỳ hạn tháng 10/2020 giảm 0,03% xuống 3.302 CNY (466,74 USD)/tấn. Giá thép cuộn cán nóng tăng 0,2% lên 3.159 CNY/tấn, trong khi giá thép không gỉ kỳ hạn tháng 6/2020 giảm 0,1% xuống 12.820 CNY/tấn.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm 0,6% xuống 596 CNY/tấn.
Giá đường tiếp đà tăng, cà phê diễn biến trái chiều
Giá đường tăng do giá dầu thô tăng thúc đẩy hoạt động mua vào và đồng real Brazil tăng phiên thứ 2 liên tiếp.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn ICE tăng 0,42 US cent tương đương 4,5% lên 9,76 US cent/lb. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2020 trên sàn London tăng 9,5 USD tương đương 3% lên 321,2 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn ICE giảm 2,3 US cent tương đương 2,1% xuống 1,053 USD/lb, thấp nhất 1 tháng (1,059 USD/lb) trong 2 phiên liên tiếp trước đó. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn London tăng 6 USD tương đương 0,5% lên 1.186 USD/tấn.
Giá đậu tương và ngô tăng, lúa mì giảm
Giá đậu tương tại Mỹ tăng trong khi giá ngô duy trì vững do kế hoạch nới lỏng các biện pháp đóng cửa và động thái của Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ duy trì việc mở cửa các nhà máy thịt, làm giảm bớt lo ngại về nhu cầu suy giảm bởi đại dịch virus corona. Trong khi, giá lúa mì giảm xuống mức thấp nhất 1 tháng do đồng USD tăng mạnh khiến triển vọng xuất khẩu suy giảm và mưa tại châu Âu và khu vực Biển Đen đã thúc đẩy triển vọng năng suất cây trồng.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 7/2020 tăng 1 US cent lên 3,13 USD/bushel và giá đậu tương giao cùng kỳ hạn tăng 7 US cent lên 8,39 USD/bushel, trong khi giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2020 giảm 11-1/4 US cent xuống 5,14-3/4 USD/bushel.
Giá dầu cọ tăng
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng theo xu hướng giá dầu thô và dầu đậu tương tăng mạnh và được hậu thuẫn bởi hoạt động mua vào kiếm lời, song mức tăng bị hạn chế bởi lo ngại về nhu cầu toàn cầu suy yếu do virus corona.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn Bursa Malaysia tăng 16 ringgit tương đương 0,79% lên 2.036 ringgit (467,51 USD)/tấn và tăng phiên thứ 2 liên tiếp.
Ngoài ra, giá dầu cọ còn được hỗ trợ bởi sản lượng tại các đồn điền giảm khi những người lao động trở về nhà cho lễ hội Ramada, giám đốc bán hàng Marcello Cultrera thuộc Phillip Futures, Kuala Lumpur cho biết.
Giá thép thanh giao tháng 10 trên Sàn giao dịch Thượng Hải giảm 3 nhân dân tệ xuống 3.327 nhân dân tệ/tấn vào lúc 9h45 (giờ Việt Nam).
Giá thép xây dựng hôm nay Giá thép thanh giao tháng 10 trên Sàn giao dịch Thượng Hải giảm 3 nhân dân tệ xuống 3.327 nhân dân tệ/tấn vào lúc 9h45 (giờ Việt Nam).
Chốt phiên thứ Hai (27/4), giá thép thanh trên Sàn giao dịch Thượng Hải tăng 0,3% lên 3.344 nhân dân tệ/tấn.
Giá thép cuộn cán nóng tăng 0,4% lên 3.192 nhân dân tệ/tấn.
Hợp đồng thép không gỉ giao tháng 6 giảm 0,4% xuống 12.935 nhân dân tệ/tấn.
Hợp đồng quặng sắt giao sau của Trung Quốc phục hồi, tăng 0,7% lên 612 nhân dân tệ/tấn (tương đương 86,50 USD/tấn) vào đầu phiên do dự trữ nguyên liệu sản xuất thép giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 9 tháng.
Dự trữ quặng sắt trên khắp các cảng Trung Quốc ở mức 117,95 triệu tấn tính đến ngày 24/4, mức thấp nhất kể từ ngày 14/7/2019, theo dữ liệu của SteelHome.
Trong một vài tuần tới, chúng tôi vẫn thấy nhu cầu quặng sắt tăng mạnh, chủ yếu do cơ sở hạ tầng mạnh bắt đầu ở Trung Quốc, công ty phân tích dữ liệu sắt và thép có trụ sở tại Singapore, Tivlon Technologies đã viết trong một ghi chú.
Hợp đồng quặng sắt có khối lượng giao dịch lớn nhất trên Sàn Đại Liên, giao tháng 9, tăng 0,2% lên 608 nhân dân tệ/tấn vào lúc 3h30 (giờ địa phương).
Giá quặng giao ngay hàm lượng 62% không đổi ở mức 84,5 USD/tấn so với phiên trước đó vào thứ Sáu (24/4).
Giá các nguyên liệu sản xuất thép khác giao dịch trái chiều với giá than mỡ giảm 0,7% xuống 1.086 nhân dân tệ/tấn trong khi giá than cốc tăng 0,7% lên 1.709 nhân dân tệ/tấn.
Ghi nhận hơn 2,91 triệu trường hợp nhiễm virus corona trên toàn cầu và 203.264 người đã tử vong, theo thống kê của Reuters.
Lợi nhuận của các công ty công nghiệp Trung Quốc trong tháng 3 đã giảm 34,9% so với năm trước xuống còn 370,66 tỉ nhân dân tệ (52,43 tỉ USD).
Fitch Ratings hi vọng tác động của virus corona đối với các nhà sản xuất thép Trung Quốc sẽ giảm bớt và dự đoán các yếu tố cơ bản của thị trường sẽ được cải thiện trong quí II.
Các chính quyền địa phương tại Trung Quốc đã nhận được khoản phát hành thêm 1 nghìn tỉ nhân dân tệ (141,37 tỉ USD) trái phiếu đặc biệt và được khuyến khích sử dụng hết hạn ngạch của tháng 5.
Những người tham gia thị trường thép Châu Á đã chứng kiến một tuần nữa trôi qua mà không có dấu hiệu ánh sáng ở cuối đường hầm do đại dịch coronavirus khi các quốc gia trong khu vực mở rộng các biện pháp phong tỏa, ngoại trừ Việt Nam.
Trung Quốc, nước đã hỗ trợ giảm cung cho thị trường quốc tế bằng cách nhập khẩu thép gần đây, đã bắt đầu có dấu hiệu giảm bớt nhu cầu khi giá trong nước giảm.
Singapore, Indonesia, Philippines và Malaysia – 3 khách hàng đầu tiên của phôi thép và thép cây – có số lượng nhiễm COVID-19 cao nhất ở Đông Nam Á và tuần trước đã công bố gia hạn lệnh phong tỏa.
Điều này sẽ có nghĩa là thời gian bế tắc lâu hơn tại các công trường xây dựng bao gồm cả ở Singapore, nơi đã chứng kiến khoảng 1.000 trường hợp nổ ra hàng ngày tại các ký túc xá công nhân nhập cư, dẫn đến việc gia hạn các biện pháp ngưng giao dịch tự động của họ đến ngày 1/ 6, ngày xa nhất trong số các quốc gia Châu Á đến nay, trong các biện pháp sẽ kéo dài 56 ngày.
Tại Philippines, một biện pháp mở rộng thứ hai đã được triển khai tại Metro Manila và các khu vực khác trên đảo Luzon, dẫn đến đóng cửa 61 ngày.
Các thương nhân phôi thép và thép cây cho biết họ hiện đang tập trung hơn vào việc đảm bảo thực hiện các giao dịch đã kết thúc trước đó và xử lý các yêu cầu hoãn giao hàng đến tháng 5 và tháng 6 hơn là đổ xô vào các giao dịch mới tại thời điểm mà hiệu suất hợp đồng có thể bị nghi ngờ.
Tuần trước cũng chứng kiến sự bắt đầu của tháng Ramadan, một giai đoạn tạm lắng kéo dài theo tháng trong xây dựng. Mặc dù đã gia hạn đóng cửa một phần ở Jakarta cho đến ngày 22/5 trong tổng số 43 ngày, nhưng số lượng công nhân ở thủ đô Indonesia – nơi phần lớn các trường hợp COVID-19 của đất nước đã được báo cáo – dự kiến sẽ trở về nhà của họ ngoài thành phố .
Ngay bây giờ, rất khó để nói ý nghĩa của lệnh mở rộng là gì, nhưng như chúng ta thấy, các dự án xây dựng và sản xuất thép vẫn được phép tiếp tục, một nguồn tin của nhà máy Indonesia cho biết. Vì vậy, tôi tin rằng các hoạt động của nhà máy sẽ không thay đổi nhiều so với hiện tại và sẽ tiếp tục ở mức thấp.
Việt Nam hết cách ly
Việt Nam, được coi là thành công trong việc ngăn chặn virus, đã không kéo dài thời gian cách ly 22 ngày sau ngày 22/ 4, nhưng nhu cầu cuộn nóng từ các nhà cán lại đã không phục hồi, chủ yếu là do nhu cầu ở nước ngoài yếu đối với cuộn cán nguội và thép mạ.
Tuy nhiên, các nhà cán lại đang ở vị thế thương lượng mạnh hơn do sự cung cấp c HRC từ Ấn Độ, Nga, Nhật Bản và Hàn Quốc, gây áp lực lên giá dưới 400 USD / tấn CFR Thành phố Hồ Chí Minh.
Do khó khăn trong việc khiến khách hàng đồng ý với giá niêm yết hàng tháng trong bối cảnh giá giao ngay HRC giảm 34 USD / tấn hoặc 8% trong tháng qua, nhà sản xuất hàng đầu Formosa Hà Tĩnh Steel đã từ bỏ cơ chế định giá niêm yết hàng tháng có lợi cho các cuộc đàm phán song phương, được hiểu là đã bắt đầu ở mức 410-415 USD/ tấn đối với hàng hóa vận chuyển trong tháng 6, giảm từ 470 USD/ tấn của tháng trước.
Nhu cầu tiêu thụ Trung Quốc suy yếu
Giá thép trong nước của Trung Quốc đã bắt đầu suy yếu có thể dẫn tới giảm khả năng hấp thụ thép thặng dư thế giới của quốc gia này thông qua hàng nhập khẩu gần đây.
Giá thép cây giao ngay tại Bắc Kinh đã giảm 60 NDT/tấn hay 1.7% trong tuần qua xuống còn 3.540 NDT/ tấn (500.10 USD/ tấn) vào thứ Sáu, trong khi giá HRC tại Thượng Hải giảm 45 NDT / tấn hoặc 1.4% so với cùng kỳ giai đoạn xuống 3.285 NDT / tấn xuất xưởng.
Những người tham gia thị trường cho biết, mặc dù mức tồn kho thép đã giảm trên cơ sở hàng tuần, nhưng chúng vẫn ở mức cao so với cùng kỳ năm ngoái.
Các giao dịch giao ngay cho phôi được bán vào Trung Quốc đã không được duy trì trong suốt tháng 4, một phần do các thương nhân có một phần tài chính của họ bị khóa trong gần 1 triệu tấn phôi được bán cho Trung Quốc trong quý đầu tiên.
Số lượng giao dịch phôi được quan sát trên cơ sở CFR Trung Quốc tính đến ngày 24/ 4 đã giảm xuống còn 6 với tổng khối lượng 150.000 tấn, so với 21 cho tổng khối lượng 760.000 tấn trong Q1, dữ liệu thị trường giao ngay biên soạn.
Nhu cầu thép trong nước của Trung Quốc có thể sẽ được hỗ trợ trong trung hạn bằng các biện pháp bền vững của chính phủ để hỗ trợ nền kinh tế, nhưng vẫn còn phải xem liệu có bất kỳ sự thúc đẩy nào đối với nhu cầu trong nước có thể khắc phục tình trạng thiếu đơn đặt hàng cho các sản phẩm Trung Quốc từ thị trường nước ngoài hay không phần còn lại của Châu Á tiếp tục giải quyết đại dịch.
Trong bối cảnh thị trường ảm đạm toàn cầu nói chung, sản xuất và bán hàng các sản phẩm thép trong nước Qúy I năm 2020 có mức tăng trưởng âm lần lượt là 6,0% và 12,4% so với cùng kỳ năm 2019.
Tình hình thị trường nguyên liệu sản xuất thép:
Quặngsắtloại 62%Fe:Giá quặng sắt ngày 10/04/2020 giao dịch ở mức 83-84 USD/Tấn CFR cảng Thiên Tân, Trung Quốc, giảm khoảng 4-6 USD/tấn so với đầu tháng 3/2020.
Than mỡluyện coke:Giá than mỡ luyện cốc, xuất khẩu tại cảng Úc (giá FOB) ngày 10/04/2020: – Hard coking coal: khoảng 120USD/tấn, giảm khoảng 20-25 USD/tấn so với đầu tháng 3/2020
Thépphếliệu: Giá thép phế HMS ½ 80:20 nhập khẩu cảng Đông Á ở mức 255-257 USD/tấn CFR Đông Á ngày 10/4/2020. Mức giá này giảm 12-15 USD/tấn so với hồi đầu tháng 3/2020. Nhìn chung, giá thép phế chào bán tại tất cả các thị trường Châu Á, Châu Mỹ và Châu Âu đều có xu hướng đi ngang và giảm, đặc biệt là Châu Á.
Điện cực graphite: Nhìn chung, giá than điện cực trong quý I/2020 tương đối ổn định, có tăng nhẹ hồi tháng 1/2020 sau đó giữ ở mức ổn định bình quân quý IV năm 2019. Mức giá giao dịch trung bình trong quý I là khoảng 2.500-3.000USD/tấn FOB Trung Quốc (loạinhỏ).
Cuộn cán nóng HRC: Giá HRC ngày 10/04/2020 ở mức 400 USD/T, CFR cảng Đông Á, giảmsâu ở mức 50-55 USD/tấn so với mức giá hồi đầu tháng 3/2020. So với giá giao dịch HRC đầu năm 2020, mức giá này đã giảm 90-92 USD/tấn. Điềunàysẽrấtkhókhănchocảnhàsảnxuất HRC trong nước, cũngnhưcác Doanh nghiệpcándẹtsửdụng HRC làmnguyênliệusảnxuất.
Tình hình sản xuất – bán hàng các sản phẩm thép:
Tháng3/2020:
Sản xuất thép các loại đạt hơn 2.116.828 tấn, tăng 7,94% so với tháng trước nhưng giảm 7,8% so với cùng kỳ 2019.
Bán hàng thép các loại đạt 2.061.870 tấn, tăng 28,21% so với tháng 2/2020, nhưng giảm 3,6% so với cùng kỳ 2019; Trong đó, xuất khẩu thép các loại đạt 422.185 tấn, tăng 22,12% so với tháng trước, nhưng giảm 1,7% so với cùng kỳ tháng 3/2019.
Tính chung Quý I năm 2020:
Sản xuất thép các loại đạt hơn 5.728.408 tấn, giảm 6% so với cùng kỳ 2019;
Bán hàng đạt 5.034.580 tấn, giảm 12,4% so với cùng kỳ 2019.
Trong đó, xuất khẩu thép các loại đạt 1.024.908 tấn, giảm 21,3% so với Quý I năm 2019.
Tình hình xuất nhập khẩu các sản phẩm thép tháng 2/2020:
Tình hình nhập khẩu:
-Tính đến hết tháng 02/2020, nhập khẩu sắt thép thành phẩm vào Việt Nam hơn 1,9 triệu tấn, với trị giá 1,18 triệu USD.Như vậy, về lượng thép nhập khẩu giảm 2,3%, và giảm 13,2% về trị giá nhập khẩu so với cùng kỳ 2 tháng/2019;
-Sau 2 tháng, lượng thép nhập khẩu từ Trung Quốc là 412 ngàn tấn, với trị giá nhập khẩu hơn 266 triệu USD, chiếm 20,9% tổng lượng thép nhập khẩu và 22,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước.
Tình hình nhập khẩu các sản phẩm thép đến tháng 2/2020
Tình hình xuất khẩu:
-Tháng 2/2020, Việt Nam xuất khẩu ra thị trường nước ngoài đạt 691 ngàn tấn, với kim ngạch đạt 384 triệu USD. So với tháng 1/2020 và cùng kỳ năm 2019, lượng xuất khẩu trên tăng khá lần lượt là 43% và 50% về lượng.
-Về trị giá xuất khẩu thép tháng 2/2020 đạt 384 triệu USD, tăng lần lượt so với tháng 1/2020 và cùng kỳ năm trước là 44% và 32%.
Top 10 thị trường xuất khẩu của Việt Nam tính đến tháng 2/2020